Ngày nay, với sự phát triển cực kỳ nhanh chóng của xã hội hiện đại, tình trạng thức ăn nhanh đã trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Các loại thức ăn nhanh chúng ta có thể dễ dang thấy nó bày bán ở bất cứ đâu như khoai tây chiên, hamburger, gà rán, coca,… Những loại thức ăn này là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng béo phì và thừa cân ở trẻ. Những tình trạng này kéo dài gây khó khăn cho việc sinh hoạt của trẻ nhỏ và còn ảnh hưởng rất nặng nề đến sức khỏe sau này.
Nguyên nhân gây ra tình trạng béo phì ở trẻ
Chế độ sinh hoạt (dinh dưỡng, vận động, giấc ngủ) bất hợp lý; khiến trẻ béo phì và gây nhiều bệnh mạn tính. Béo phì cần được quan tâm dự phòng ngay từ khi bà mẹ mang thai và em bé sau sinh.
Theo Viện Dinh dưỡng quốc gia (Bộ Y tế) trẻ bị thừa cân, béo phì (TCBP) chủ yếu là do dinh dưỡng bất hợp lý và ít hoạt động thể lực. Khi khẩu phần năng lượng ăn vào vượt quá nhu cầu năng lượng của cơ thể; năng lượng dư thừa được chuyển thành mỡ tích lũy. Do đó những trẻ có chế độ ăn giàu chất béo; đậm độ năng lượng cao có liên quan chặt chẽ với gia tăng TCBP.
Cần lưu ý về một số yếu tố gây TCBP: Trẻ có cân nặng sơ sinh quá cao, suy dinh dưỡng thấp còi; trẻ hay ăn vặt, thích ăn ngọt, uống nước giải khát, thức ăn nhanh (fast food); ăn nhiều vào buổi tối đặc biệt trước khi đi ngủ,
Ngoài ra, TCBP có yếu tố di truyền. Trẻ mang một số gien trong các nhóm gien như nhóm gien kích thích sự ngon miệng; nhóm gien liên quan đến tiêu hao năng lượng, nhóm gien điều hòa chuyển hóa; nhóm gien liên quan đến sự biệt hóa và phát triển tế bào mỡ. Những trường hợp này thường gặp ở trẻ có bố mẹ bị TCBP.
Ngủ ít cũng được xem như một là một yếu tố nguy cơ cao đối với TCBP ở trẻ dưới 5 tuổi. Một số tác giả cho rằng hoạt động tiêu mỡ của cơ thể đạt tối đa về đêm; và ngủ ít làm giảm tiêu mỡ nói chung.
Những hậu quả mà thừa cân, béo phì mang lại
Chuyên gia của Viện Dinh dưỡng quốc gia cho biết, béo phì là yếu tố nguy cơ của nhiều bệnh tật của nhiều cơ quan, bộ phận trong cơ thể như: thoái hóa khớp, đau thắt lưng, vì khi trọng lượng cơ thể tăng thì sức nặng đè lên các khớp càng lớn, nhất là vùng lưng, khớp háng, khớp gối, cổ chân làm cho các khớp này sớm bị tổn thương và lão hóa nhanh.
Béo phì ảnh hưởng hệ nội tiết, chuyển hóa, gây tình trạng kém dung nạp glucose, kháng insulin, nặng hơn là bệnh đái tháo đường, rối loạn chuyển hóa mỡ máu, tăng a xít uric gây bệnh gút.
Với hệ tim mạch, béo phì gây tăng huyết áp, xơ vữa mạch máu; nhồi máu cơ tim, tai biến mạch não, hẹp tắc động mạch chi. Béo phì tác động rất xấu đến hệ hô hấp vì gây giảm thông khí, ngừng thở khi ngủ.
Béo phì gây bệnh mạn tính khi tuổi trưởng thành. Trẻ TCBP có thể không có biểu hiện bệnh ở thời điểm hiện tại nhưng khi trưởng thành có nguy cơ mắc các bệnh mạn tính không lây như các bệnh tim mạch, đái tháo đường, gan nhiễm mỡ…
Béo phì sớm ở trẻ nhỏ trầm trọng và khó điều trị hơn béo phì khi lớn tuổi
Béo phì thường tăng nguy cơbệnh tật và tử vong: tăng lipit máu, bệnh về xương khớp, bệnh về hô hấp, cao huyết áp, bệnh tim mạch, rối lọan giấc ngủ, ngừng thở
Béo phì ở trẻ em sẽ ãnh hưởng đến sức khỏe khi trẻ trưởng thành; do mắc các bệnh như: tiểu đường, tim mạch
Béo phì ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý và kh3 năng học tập của trẻ, trẻ chậm chạp, vụng về hay bị bạn bè châm chọc, phân biệt đối xử, do vậy trẻ thường mặc cảm tự ti sống cô lập
Cách phòng ngừa béo phì cho trẻ
Cần dinh dưỡng hợp lý cho người mẹ trong thời gian có thai; mức tăng cân hợp lý trong thời gian mang thai của bà mẹ là 10-12 kg.
Thực hiện nuôi con bằng sữa mẹ. Cho trẻ bú sớm (trong vòng giờ đầu), bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu; và tiếp tục bú kéo dài cho đến khi trẻ được 24 tháng.
Chế độ ăn bổ sung hợp lý, đúng thời điểm (khi trẻ tròn 6 tháng), ăn đủ số bữa theo lứa tuổi, khẩu phần ăn cân đối, phối hợp nhiều nhóm thực phẩm (nhóm lương thực, đậu đỗ, sữa/chế phẩm của sữa, thịt/cá các loại, trứng các loại, rau các loại, các loại củ quả có màu vàng/đỏ và nhóm dầu mỡ).
Theo dõi tăng trưởng của trẻ bằng biểu đồ tăng trưởng tại gia đình và trường học; để phát hiện sớm TCBP để điều chỉnh kịp thời.
Dự phòng thừa cân, béo phì cho trẻ lứa tuổi học đường (6-19 tuổi). Thực hiện bữa ăn học đường, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và dinh dưỡng; nhằm giúp trẻ phát triển tối ưu về thể chất và tinh thần. Thức ăn dành cho trẻ cần da dạng (đạt 5 trong 8 nhóm thực phẩm); đảm bảo cung cấp đủ nguồn protein động vật và thực vật. Bữa ăn ở trường và ở nhà cần được phân phối hợp lý.