Ở Việt Nam, tục ăn trầu có từ thời các Vua Hùng. Nó gắn liền với sự tích “Sự tích trầu cau” về lòng chung thủy của người vợ với chồng và tình yêu thương giữa hai anh em ruột. Chúng là biểu tượng của tình yêu, tình anh em, gia đình và hạnh phúc. Trầu cau không chỉ xuất hiện trong văn học dân gian Việt Nam, các câu ca dao, dân ca, hội hè mà đã trở thành một phần không thể thiếu trong nét đẹp văn hóa cổ truyền của người dân Việt Nam. Cùng prifect tìm hiểu về nét đẹp của tục lệ ăn trầu truyền thống của người Việt nhé!
Giới thiệu về phong tục ăn trầu
Theo phong tục Việt Nam “Miếng trầu là đầu câu chuyện” – miếng trầu chứa đựng nhiều ý nghĩa. Miếng trầu đi đôi với lời chào. Người lịch sự không “ăn trầu cách mặt” nghĩa là đã tiếp thì tiếp cho khắp lượt. Trong cùng một cuộc gặp không thể mời người này mà bỏ người khác. Vì trầu cau là “đầu trò tiếp khách” lại là biểu tượng cho sự tôn kính. Phổ biến trong các lễ tế thần, tế gia tiên, lễ tang, lễ cưới, lễ thọ, lễ mừng…
Tương truyền việc có từ thời Hùng Vương và gắn liền với chuyện cổ tích nổi tiếng “Chuyện trầu cau”. Miếng trầu gồm 4 thứ nguyên liệu: cau ăn trầu (vị ngọt), lá trầu không (vị cay), rễ (vị đắng) và vôi (vị nồng). Ăn trầu thể hiện nếp sinh hoạt mang đậm tính dân tộc độc đáo của Việt Nam. Sách xưa ghi rằng “ăn trầu làm thơm miệng, hạ khí, tiêu cơm”.
Miếng trầu, làm cho người ta gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Miếng trầu nhân lên niềm vui, khách đến được mời trầu; tiệc cưới có đĩa trầu để chia vui; ngày lễ, tết, ngày hội miếng trầu với người lạ để làm quen, kết bạn; với người quen miếng trầu là tri ân tri kỷ. Miếng trầu cũng làm người ta ấm lên trong những ngày đông lạnh giá. Làm nguôi vợi bớt nỗi buồn khi nhà có tang. Có buồn được sẻ chia cảm thông bởi họ hàng bạn bè làng xóm. Miếng trầu còn là sự thể hiện lòng thành kính của thế hệ sau với các thế hệ trước. Cho nên trên mâm cỗ thờ cúng gia tiên của người Việt có trầu cau.
Cách ăn trầu cau của người Việt Nam
Nguyên liệu ăn trầu cau gồm lá trầu (loại lá có màu xanh sẫm bóng và có các gân nổi rõ ở mặt bên dưới). Quả cau (có màu xanh ánh vàng, hình nón, kích thước xấp xỉ cỡ quả trứng gà, bên trong lốm đốm). Và ít vôi (loại vôi tôi để lâu, nhão, màu trắng hoặc màu hồng, thường bán chung ở nơi mua trầu cau). Lá trầu và cau sẽ được cất trong cơi trầu làm bằng đồng, vôi được đặt trong bình vôi.
Đầu tiên, người ta sẽ bổ cau làm sáu miếng nhỏ. Cau được chọn phải là cau tươi hoặc cau khô. Nếu là cau khô cần ngâm nước trước khi ăn khoảng 20 phút cho mềm ra. Tiếp đến, người ta dùng chìa vôi để quét vôi lên lá trầu, gấp lại rồi lấy một miếng cau vào miệng nhai nát hỗn hợp 3 món này.
Những người lớn tuổi hoặc những người răng yếu thường cho hỗn hợp trầu cau và vôi vào ống giã trầu. Đây là dụng cụ có hình dáng tương tự như chum uống rượu với kích thước to nhỏ khác nhau tùy vào nhu cầu người dùng. Tiếp đến, người ta dùng ống ngoáy trầu (một cái que bằng kim loại) để nghiền nhỏ lá trầu và quả cau ra rồi mới cho vào miệng nhai.